Tuesday, August 22, 2017

NỮ THẦN MẶT TRỜI VÀ MẶT TRĂNG


NỮ THẦN MẶT TRỜI VÀ MẶT TRĂNG

Vua trên trời là Ngọc Hoàng có hai con gái đẹp. Ngọc Hoàng yêu quý hai nàng lắm nên cho các nàng hàng ngày luân phiên nhau đi xem xét mọi việc của hạ giới để báo lại cho nhà Trời. Cô gái đầu tên là Mặt Trời được ngồi kiệu hoa có bốn người khiêng. Bốn người này chia làm hai tốp: một tốp già và một tốp trẻ. Tốp các cụ già khiêng kiệu luôn luôn lo làm tròn phận sự, chăm chỉ vào công việc nên cô Mặt Trời thường đi một vòng rất nhanh. Còn tốp trẻ bản tính la cà nên những lần được phân công khiêng kiệu thường về muộn. Vì thế, mỗi lần Mặt Trời đi với tốp trẻ thì ngày dài, và đi với tốp già thì ngày lại ngắn.
Mặt Trăng là cô em tính tình nóng nảy còn hơn cả cô chị. Sức nóng của cô đã làm hại cho người và muôn vật khá nhiều. Ấy thế mà cô vẫn cứ chỏng lỏn, đi đâu cũng sà vào khiến cho nhân dân vô cùng kinh hãi. Trần gian khổ sở vì cô Mặt Trăng, họ đã kêu ca rất nhiều, tiếng thấu lên Thượng giới khiến cho bà mẹ đã định lấy tro mà bôi lên mặt cô để giảm bớt sức nóng đi. Nhưng Ngọc Hoàng chiều con, nên không để cho vợ làm việc ấy.
Bấy giờ ở dưới trần có một chàng trai tên là Quải. Quải là con mồ côi nhưng lại có một thân thể cực kỳ to lớn và sức khỏe tuyệt vời. Trước những hành động tai ác của cô Mặt Trăng, Quải quyết tâm trị cho một mẻ. Anh ta đón đường cô Trăng trên một đỉnh núi cao và trữ sẵn một đống cát thật lớn. Hôm ấy, cô Mặt Trăng vẫn quen thói cũ vừa đi vừa sà xuống để nhìn muôn vật, Quải chờ cho cô ta đến gần rồi bất thình lình bốc cát ném túi bụi vào mắt, vào mặt mũi cô. Cô Trăng đang rong chơi, bị tấn công đột ngột, nhắm mắt lại nhưng đất đã dính đầy mặt và chui cả vào trong mắt. Cô ta hốt hoảng vội vụt bay lên cao, lảng ra xa chỗ Quải đứng. Từ đó trở đi cô không dám sà xuống gần mặt đất nữa. Mặt mũi cô bị cát dính chặt nên không còn sáng được như xưa. Sau này tính tình của cô trở nên dịu dàng, hiềnlành hơn, ở dưới trần ai cũng thích. Người ta nói mỗi lần cô ngoảnh mặt xuống nhân gian thì lúc đó là trăng rằm, cô quay lưng tức là ba mươi, mùng một, còn cô trở sang trái, sang phải tức là thời kỳ trăng hạ huyền hoặc thượng huyền. Còn những khi trăng quầng, ấy là lúc cát bụi trát mặt bị gió thổi bay tung ra.

ĐÚC NGƯỜI


ĐÚC NGƯỜI

Xưa có đức thánh Khổng Lồ, chuyên trông nom về nghề đúc và nghề rèn ở hạ giới. Đức thánh thường thân hành đi lại các nơi; khi giáng xuống miền này, lúc hiện ra xứ nọ, thành người trần, để tìm cách dạy thêm cho những người thợ về kỹ xảo. Nhưng trong khi theo dõi việc dạy nghề, đức thánh nhận thấy đám đệ tử của mình có những kẻ còn phạm thói lọc lừa điên đảo. Bởi vậy, đức thánh lại phải để tâm chữa cả thói hư tật xấu của họ.
Có một người thợ đúc rong vai quảy đôi bồ trong có đủ các thứ đồ nghề linh tinh như lò bễ, khuôn, kéo, kìm, cặp, v.v… miệng thỉnh thoảng cất tiếng rao: – “Ai đúc nồi, đúc sanh, đèn, chiêng, thanh la, bình hương, bình hoa, biến cũ thành mới không?”. Vốn nghề nghiệp thành thạo, nên hễ có ai gọi đến, ông chỉ lúi húi làm một vài ngày là xong. Thế rồi cơm ăn tiền lấy, ông lại quảy gánh lên vai chuyển từ làng này sang làng khác. Một hôm, từ sáng sớm, người thợ đúc đang bước rảo cho kịp phiên chợ. Đang đi, ông bỗng gặp một chàng trai trẻ tuổi, vai cũng quảy đôi bồ. Gã trai thấy ông thì đứng lại chào một cách cung kính, rồi nói:
– Xin cho hỏi thăm một tý. Con theo thầy con học nghề đã mấy tháng nay, không may hôm trước đây, khi qua rừng, thầy trò lạc nhau, tìm suốt mấy ngày không ai biết cả. Xin hỏi ông, ông có gặp một người tên là Chu, trạc ngoài năm mươi, người cao cao, râu quai nón hay không?
truyện cổ tích đúc người
Người thợ đúc lắc đầu:
– Ta không hề gặp một người nào như vậy.
Dừng một lát, anh chàng nói tiếp, vẻ khẩn khoản:
– Thật khổ quá! Con học với thầy bấy lâu có biết nghề đúc chút đỉnh, còn muốn học thêm cho thành thạo, không ngờ thầy trò mỗi người đi một đường. Bây giờ xin ông cho đi theo, con xin gánh gồng và hầu hạ chu tất. Chỉ cốt học được nghề cầm tay, ngoài ra không có ý gì khác. Chẳng hay ông có lòng thương hạ cố được không?
Người thợ đúc thoạt đầu nhìn anh chàng thấy đã có vẻ ngờ nghệch, nay nghe nói thế thì tỏ ý coi khinh. Ông ta nghĩ bụng: – “Đi đúc rong thì chỉ một mình mình cũng đủ, đến đâu đã có sẵn người của chủ nhà cung ứng đó rồi. Giá thử có một người quảy gánh cho thì vẫn là đỡ mệt nhưng sức mình còn khỏe, cũng chưa cần lắm. Vả chăng được một vài quan tiền công, không lẽ không chia cho người học việc”. Bèn đáp:
– Ta trông anh còn trẻ người non dạ, nhìn bàn tay còn trắng trẻo chưa sém tý nào. Học cái nghề này không phải dễ. Thôi, anh hãy trở về đi cày còn hơn!
Nghe nói, anh chàng chắp tay cầu khẩn:
– Con cũng đã biết đúc võ vẽ, thầy hãy cho con theo. Nếu làm không được, hay hầu hạ sơ suất thì lúc đó thầy đuổi con đi cũng không muộn!
Thấy hắn kêu nài và cam đoan trung thành với mình, người thợ đúc bỗng đổi ý kiến, nhận lời. Chàng trai đổi buồn làm vui, sụp xuống làm lễ “bái sư”, rồi trút các thứ đồ nghề, nhập gánh của mình với gánh của thầy làm một, đoạn quảy gánh lên vai đi theo ông thầy mới.
Chưa đến chợ, đã có khách hàng đón thầy trò về nhà thuê đúc một chiếc sanh cỡ lớn. Ngã giá, thầy trò bắt tay vào đắp khuôn dựng lò thụt bễ, loay hoay trong mấy buổi đã làm xong. Nhưng qua công việc, người thợ đúc nhận thấy anh chàng học việc của mình còn vụng về hết sức, dường như chưa biết cái gì cả.
Bởi thế, sau khi từ giã nhà chủ ra đi, trên đường, người thợ đúc cất tiếng mắng anh ta:
– Tao nghe mày nói có biết nghề võ vẽ nên tao mới nhận, có ngờ đâu mày chỉ là đồ ăn hại.
Ông ta không ngờ anh chàng học nghề không tỏ vẻ gì là thẹn thùng hay bối rối, chỉ ngước mắt nhìn mình rồi bình thản trả lời:
– Thưa thầy, con đi theo thầy cũ của con, học được cách đúc khác kia, chứ không phải như cách đúc của thầy vừa rồi.
Người thợ đúc ngạc nhiên, vội hỏi:
– Sao? Mày nói mày học được cách đúc khác là đúc thế nào?
– Thầy con không đúc nồi niêu, sanh chảo, bình hương, bình hoa, mà là đúc người: đúc người già thành người trẻ, đúc người xấu thành người tốt.
Người thợ tưởng hắn mất trí nên càng sửng sốt:
– Ô, mày nói gì lạ vậy? Tao chưa từng nghe điều đó bao giờ.
– Thưa thầy thật đó ạ! Cách đúc cũng dễ, không khó khăn nặng nhọc gì lắm. Chỉ nhờ vào mấy cái khuôn của thầy con để lại, có mang theo đây.
Nói rồi anh giở khuôn cho người thợ đúc xem. Trong khi thầy tò mò nhìn từng cái khuôn lạ, thì trò lại nói thêm:
– Thưa thầy tuy con mới học võ vẽ, nhưng làm cũng dễ lắm, mà lại được nhiều tiền. Mỗi chuyến thầy làm nhiều lắm cũng bốn năm quan. Nhưng mỗi chuyến thầy cũ của con làm thì được những một hai trăm quan là thường.
Người thợ đúc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, nhưng thấy hắn ăn nói có vẻ chân thật, nên cuối cùng bụng cũng hơi tin. Sau đó lại hỏi:
– Anh có tự tay đúc được như anh nói không?
– Thưa thầy, thầy con đã từng cho con tự tay làm lấy một mình, nên chắc chắn có thể làm được.
– Thế thầy anh rao hàng thế nào?
– Thầy con thường rao thế này: “Nào ai muốn đúc người xấu thành tốt; da mồi tóc bạc đúc thành nhan sắc nõn nà; ông lão tám mươi thành đứa trẻ mười ba; bảy mươi đúc thành mười bảy không nào?”.
Nghe rõ đầu đuôi, càng thêm tò mò, người thợ đúc chỉ muốn anh học nghề làm ngay cho mình xem tận mắt, liền bảo hắn:
– Thôi bây giờ tôi hãy tạm nghỉ công việc của tôi, để xem cách làm ăn của anh chút đã, anh cứ rao như thế đi! Nếu có ai thuê, thì anh thử làm cho tôi xem. Nhưng nên nhớ nếu có xảy ra việc gì thì tôi không biết đâu đấy nhé!
Từ giờ phút đó, thầy nhường cho trò rao và liệu tính hết mọi việc. Đến một làng nọ, một người phú hộ nghe tiếng rao liền gọi vào hỏi:
– Bảy mươi đúc thành mười bảy là thế nào?
Chàng trẻ tuổi đáp:
– Cũng như nồi cũ đúc thành nồi mới thôi! Nhưng đây là đúc người: xấu xí ra xinh giòn, già yếu thành trẻ khỏe.
Nhà chủ nói:
– Tôi có ông cụ, tuổi đã ngoài bảy mươi, yếu lắm nằm liệt đã mấy năm nay, nếu đúc cho trẻ và khỏe lại được thì hay quá! Nhưng anh lấy bao nhiêu tiền công?
– Tôi lấy rẻ ông một trăm năm mươi quan, và cơm ăn cho cả hai thầy trò. Ngoài ra, phải có hai mươi sảo than, mượn cho tôi một cái bung ba mươi và dọn cho tôi một gian buồng kín, không để một ai được nhòm vào.
– Nếu làm được thì trăm rưởi quan cũng không đắt, nhưng vị phỏng chết người thì thế nào?
– Nếu chết thì tôi xin bồi mạng. Tôi sẽ biên giấy cam đoan cho ông.
Người thợ đúc từ đầu đã chăm chú theo dõi việc làm của anh học nghề. Ông thấy anh ta có vẻ thông thạo. Trước hết, anh xin giấy bút viết ngay tờ cam đoan. Trong giấy, anh hứa nếu làm không xong thì không nhận tiền, hoặc nếu làm cho khách hàng chết hay bị thương tích gì thì xin chịu tù tội. Thế rồi ung dung chờ cho cơm nước vào đâu đấy, anh dẫn thầy vào buồng kín lấy khuôn ra tô đi nặn lại, vừa làm vừa bày vẽ từng tý cho thầy. Công việc chỉ trong một buổi là xong. Chiếc bung được bắc lên một bếp lửa hồng. Đoạn, anh đưa ông già vào buồng lột áo quần đánh nhẹ một cái. Ông già ngã lăn ra chết. Không bối rối chút nào, anh đưa xác ông già bỏ vào bung, đổ nước vào, rồi vừa thụt bễ vừa đảo. Sau ba ngày ba đêm nước trong bung đã trở nên quánh. Cuối cùng anh bưng bung nước ấy đổ tất vào khuôn. Đợi nguội ba ngày ba đêm nữa, anh mới tháo khuôn ra. Quả nhiên có người từ trong đó dần dần cựa quậy, rồi nhỏm dậy bước ra, mặt mũi vẫn còn phảng phất hình trạng ông già, nhưng má hóp hóa thành má căng, tóc bạc đã trở nên đen nhánh.
Suốt mấy ngày người đúc hồi hộp chờ đợi, giờ đây mới thở phào khi người chết đã sống lại, lại khỏe và trẻ đúng như lời rao. Chủ nhà thấy bố mình được “cải lão hoàn đồng” thì mừng rỡ bội phần. Ông ta vội mang tới đặt lên bàn một trăm năm mươi quan tiền bó mo cùng nhiều tặng vật, rồi tỏ lời cảm ơn hai thầy trò. Anh chàng học nghề chia ngay cho thầy mình một nửa. Người thợ đúc sung sướng quá đỗi, ngợi khen chàng trai hết lời. Trong bụng ông ta thầm nghĩ:
– Kể ra làm cũng chẳng khó mà lại được nhiều tiền. Thế mà từ lâu không ai biết cả.
Hai thầy trò từ giã nhà chủ ra đi. Tới một làng khác, một ông lái buôn giàu có gọi họ vào để thuê đúc lại người vợ cả lưng đã gù, răng đã rụng. Công việc lại diễn ra hệt như trước: cũng viết giấy cam đoan, cũng đưa khuôn ra đắp, rồi cũng đánh chết bà già bỏ vào bung. Nhưng lần này thì người thợ đúc không còn hồi hộp. Hắn xắn tay áo giành lấy công việc ở người học trò và chịu khó làm đủ mọi chuyện. Sau sáu ngày sáu đêm chờ đợi, khuôn được tháo ra. Quả nhiên, bà lão đã biến thành người tố nữ làm cho ai nấy đều trầm trồ kinh ngạc.
Khi cầm lấy những quan tiền tốt của anh học nghề trao cho, người thợ đúc suy nghĩ: – “Tất cả phép lạ đều ở trong cái khuôn kia cả. Chỉ nhờ có mấy cái khuôn của ông thầy hắn để lại mà làm ra bộn tiền. Hừ! Một cái nghề ngon ăn biết bao nhiêu! Có lẽ trẻ con nó cũng làm được. Tội gì mà không chiếm lấy để một mình hưởng lợi!”.
Nghĩ vậy, một hôm vừa đến một làng kia, người thợ đúc liền đến trình xã trưởng, vu cho anh học nghề của mình đã ăn cắp mấy nén bạc. Chàng trai cố sức cãi lại nhưng anh không làm sao minh oan được vì lúc giở ra khám, mấy nén bạc có đánh dấu không biết tại sao lại nằm lù lù trong “ruột tượng” của anh. Cuối cùng anh bị xã trưởng cho đóng gông lại để giải lên quan. Người thợ đúc bèn chiếm lấy tất cả đồ nghề rồi quảy gánh đi miết. Hắn đi đến một làng xa mới dừng lại, nhận đúc thuê cho một nhà nọ để “cải lão hoàn đồng” một ông già ngoài tám mươi tuổi. Bắt chước người học trò, hắn cũng làm giấy cam đoan tử tế, rồi cũng giở khuôn ra tô tô đắp đắp như kiểu hắn đã được chỉ vẽ. Khi đưa ông già vào buồng, hắn cũng choảng cho ông già một vố chết lăn, đoạn bắt tay vào những công việc như hắn đã làm lần trước. Nhưng khốn thay, sau mấy ngày đêm, mở nắp khuôn ra, hắn giật mình vì nước vẫn không đông lại thành người. Hết sức lo sợ, hắn lại cố chờ thêm ba ngày ba đêm nữa mà vẫn không thành công. Mấy người con ông già chờ mãi không được, bèn phá cửa buồng mà vào. Hắn hoảng quá, xin khất thêm ba ngày ba đêm nữa. Lại ba ngày ba đêm nữa trôi qua. Cuối cùng khi mở nắp khuôn hắn mới thật sự tuyệt vọng. Mấy người con ông già xông lại, bắt trói người thợ đúc đánh cho một trận thừa sống thiếu chết, rồi đóng gông để giải lên quan.
Trên đường đi, cổ mang gông, mình thâm tím vì đòn, người thợ đúc chợt thấy sự trừng phạt về lòng tham lam gian giảo của mình. Hắn hết sức hối hận. Mồm hắn hết lời cầu khẩn đức thánh Khổng Lồ, hứa xin chừa mọi thói hư tật xấu, và xin đức thánh run rủi cho anh học nghề trở lại để cứu hắn khỏi tử tội. Hắn lầm rầm cầu khẩn suốt mấy ngày trời. Đến ngày thứ ba, lúc hắn đang bị tuần áp giải từ xã lên huyện, vừa ghé vào quán nghỉ chân thì bỗng thấy người học nghề của mình đang ngồi uống nước ở quán. Người thợ đúc liền sụp lạy như tế sao, và xin anh học trò hãy rón tay làm phúc. Anh học trò cười mà rằng:
– Chính ta là Khổng Lồ đây. Ta không ngờ bụng dạ của lũ các ngươi lại nham hiểm đến thế. Đáng lý ta còn trị tội nặng hơn nữa, nhưng đã tỏ lòng hối hận thì cũng tha cho. Các ngươi phải lo bảo nhau: đã đi làm cái nghề của ta thì không được dối trá lường gạt người khác. Dù có nghèo khổ đến đâu, lương tâm cũng phải cho trong sạch.
Nói vừa dứt lời thì vụt một cái, mọi người không thấy anh học trò đâu nữa. Nhưng giữa lúc đó, từ ngoài cửa, một người con của ông già đã hộc tốc bước vào, nói không ra hơi:
– Thôi đừng giải người ta đi nữa. Bố tôi đã sống lại rồi, hiện đang cựa quậy ở trong khuôn.
Người ta nói từ đấy về sau những người làm nghề đúc ai cũng sợ đức thánh Khổng Lồ; không một ai dám gian trá khi hành nghề, nhất là đã cùng làm với nhau thì không bao giờ lừa dối nhau

Cuốn theo chiều gió - chương 4

CHƯƠNG 4

Tối hôm ấy, Scarlett thay thế mẹ chủ tọa bữa ăn, nhưng đầu óc nàng cứ rối cuồng vì cái tin kinh khủng về Ashley và Melanie. Tuyệt vọng, nàng mong mẹ trở về từ nhà Slattery bởi vì, nếu không có bà, nàng cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Bọn Slattery với những chứng bịnh không ngớt của chúng có quyền gì đem Ellen ra khỏi nhà, trong khi nàng Scarlett, cần bà biết bao?
Suốt bữa ăn buồn bã ấy, giọng nói oang oang của Gerald cứ đập mạnh vào tai khiến Scarlett tưởng rằng không thể nào chịu đựng được nữa. Gerald đã hoàn toàn quên hẳn câu chuyện hồi chiều và không ngớt độc thoại về những tin tức giờ chót đối với căn cứ Sumter, nhấn mạnh bằng cách đấm lên bàn và khoa nắm tay tứ tung. Thói quen của ông trong bữa ăn là điều khiển những câu chuyện, và thường thường, Scarlett bận rộn với những ý nghĩ riêng, chỉ nghe một cách ơ hờ. Nhưng tối nay, Scarlett không thể nào không để lọt vào tai giọng nói của cha, dù nàng hết sức vểnh tai lắng đợi tiếng bánh xe ngựa báo hiệu mẹ về.
Dĩ nhiên, nàng không có ý kể cho mẹ nghe tâm sự thảm não của mình, vì Ellen sẽ bất bình và phiền muộn khi nghe con gái bà đi yêu một người đàn ông đã đính hôn với một thiếu nữ khác. Nhưng lần đầu tiên trong đời gặp phải một chuyện bi thương, nàng muốn tìm an ủi nơi mẹ. Nàng thường cảm thấy an toàn hơn khi được gần bên Ellen, vì mẹ nàng luôn luôn biến được những cảnh ngộ khó khăn trở nên tốt đẹp, chỉ bằng sự hiện diện của bà.
Nàng đứng bật lên khi nghe tiếng bánh xe lọc cọc ngoài đường và rồi lại ngồi xuống khi tiếng xe chạy vòng quanh để ra nhà sau. Chắc không phải Ellen, vì nếu là bà, thì Ellen đã xuống xe ngay thềm trước. Kế đó, có tiếng bập bẹ và tiếng cười ầm ĩ của bọn da đen vang lên ở sân sau. Qua cửa sổ, Scarlett trông thấy Pork, vừa từ trong nhà bước ra, tay cầm một bó đuốc nhựa thông cháy lập loè và một vài người không rõ mặt đang bước xuống một cổ xe chở hàng. Trong đêm tối vang lên tiếng xì xào, tiếng cười ồm ồm, những âm thanh vui vẻ quen thuộc, vô tư lự, những âm thanh trong cổ họng trầm bổng như âm nhạc . Kế đó có tiếng chân kéo lê trên bậc thềm trước, vào lối đi dẫn đến nhà chánh rồi dừng lại trong đại sảnh, ngay trước cửa phòng ăn. Có tiếng thì thầm một lúc và Pork bước vào, mất hẳn dáng điệu nghiêm chỉnh hàng ngày, mắt tròn xoe và răng trắng xoá. Hắn thở hổn hển báo tin với vẻ kiêu hãnh của một tân lang.
− Thưa ông Gerald, người đàn bà mới của ông đã tới rồi.
Gerald giả bộ giận dữ:
− Đàn bà mới nào, tao chẳng có mua đứa đàn bà mới nào cả !
− Dạ thưa ông, có mà, thưa ông Gerald ! Vâng, nó đang đứng ngoài kia, nó muốn thưa chuyện với ông.
Pork vừa trả lời, vừa vặn tay lo lắng.
− Thôi được, cho tân nương vào.
Pork quay lại, ngoắc vợ hắn vào. Đó là người đàn bà mới từ đồn điền nhà Wilkes và sẽ trở thành gia nhân của Tara. Vợ hắn bước vào, sau lưng là một đứa bé gái mười hai tuổi bị che khuất bởi cái váy rộng bằng vải chúc bâu, đang bám lấy chân mẹ.
Dilcey, người cao lớn, thân hình luôn luôn thẳng đứng. Căn cứ vào nét mặt, người ta có thể gán cho mụ giữa ba mươi tới sáu mươi, vì đó là một bộ mặt ít nếp nhăn và bất động như đồng. Ở mụ, dòng máu người da đỏ ấn lát những đặc điểm của người da đen. Trên mặt mụ người ta nhận thấy có sự pha trộn của hai chủng tộc với màu da đỏ, vầng trán cao nhưng hẹp, lưỡng quyền nhô cao, mũi quặm như mỏ chim ưng nhưng lại hẹp ở chóp và vành môi cộm của người da đen. Đó là một mẫu người tự chủ với dáng đi đĩnh đạc còn vượt hơn cả Mammy, bởi vì Mammy đã phải tự luyện còn với Dilcey thì những cái đó thuộc về bẩm sinh.
Tiếng nói của mụ không quá lắp bắp như phần đông dân hắc chủng, đã vậy mụ còn biết chọn từng lời:
− Kính chào quí vị tiểu thơ, kính chào ông Ge'ald, tôi 'ất buồn phải làm phiền quí vị, nhưng tôi muốn vào đây để cám ơn quí vị đã mua tôi và đứa con tôi. Có nhiều vị có thể chỉ chịu mua tôi chớ không chịu mua luôn con P'issy của tôi, thế nầy thì tôi không còn gì phải buồn 'ầu, và tôi cám ơn quí vị. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tỏ 'a mình không bao giờ quên...
− Hừm ... hừm ...
Gerald chỉ có thể tằng hắng như thế để che giấu sự bối rối của mình khi bị phát giác lộ liễu một nghĩa cử.
Dilcey quay sang phía Scarlett và có một cái gì ở khóe mắt mụ giống như một nụ cười:
− Thưa cô Sca'lett, Po'k có nói với tôi là chính cô đã yêu cầu ông Ge'ald mua tôi. Do đó, tôi 'ất sung sướng để con P'issy làm nữ tỳ 'iêng của cô.
Mụ vói tay ra sau lôi đứa bé tới trước . Đó là một con bé loắt choắt, da nâu, chân khẳng khiu như chim, trên đầu xoắn tít những lọn tóc vô số bằng chỉ sợi . Mắt nó sắc bén, chẳng một điều gì có thể lọt qua nhưng mặt lại làm ra ngu dại.
Scarlett đáp:
− Cám ơn Dilcey, nhưng tôi ngại là Mammy chẳng tán thành . Bà đã từng phục dịch tôi ngay từ lúc mới sanh ra.
Dilcey đáp lại bằng một giọng thản nhiên có thể làm cho Mammy tức điên lên nếu bà có mặt:
− Mammy đã già 'ồi! Bà là một người vú tốt, nhưng cô bây giờ là một thiếu nữ 'ồi, cần phải có một nữ tỳ giỏi, và con P'issy của tôi đã từng hầu hạ cô India tới một năm 'ồi . Nó biết may vá và cài tóc khéo như người lớn.
Bị mẹ đẩy tới, cô bé vừa cúi chào vừa cười toe toét, khiến Scarlett chẳng thể nào đừng cười trả lại. Nàng nghĩ: "Đúng là một con quỉ nhỏ lém lỉnh" và nói lớn:
− Cám ơn Dilcey, mình sẽ bàn lại chuyện đó khi mẹ tôi về tới.
− Dạ, cám ơn cô. Chúc cô ngon giấc.
Dilcey nói xong, quay lại dẫn đứa con ra khỏi phòng, riêng Pork vẫn còn đứng hầu. Đồ ăn đã dẹp hết, Gerald tiếp tục bài diễn văn của ông, nhưng ít hứng thú hơn, còn mấy thính giả của ông thì chẳng thích chút nào. Với một giọng hùng hồn, ông nêu ra những dự đoán về cuộc chiến tranh và những câu hỏi cũng hùng hồn như là miền Nam có chịu khoanh tay ngồi ngó hay không trước sự lăng nhục của bọn Yankee và chỉ được các con ông trả lời lí nhí: "Phải, thưa ba" và "Không phải, ba".
Carreen ngồi trên gối lót, dưới ngọn đèn lớn đang chăm chú đọc chuyện tình của một thiếu nữ đi tu sau khi người yêu chết, rơi nước mắt xúc động âm thầm vừa thích thú tưởng tượng lúc mình đang đội chiếc mũ trắng của nữ tu. Suellen thì ngồi thêu mấy món đồ mà cô gọi đùa là "Của Hồi Môn", thầm nghĩ xem có thể nào tách rời được Stuart Tarleton ra khỏi Scarlett ngày mai không, để mê hoặc Stuart với những đức tánh dịu dàng rất đàn bà của cô mà Scarlett không thể có. Trong khi đó, Scarlett đang nát lòng vì chuyện Ashley.
Tại sao ba cứ nói hoài về vụ căn cứ Sumter và bọn Yankee, trong khi ba biết trái tim mình đang tan nát ? Cũng như những cô gái trẻ khác, nàng lạ lùng chẳng hiểu tại sao người ta lại quá ích kỷ đến nỗi quên luôn sự đau đớn của nàng và tại sao trái đất cứ tiếp tục quay không chút ngó ngàng tới tâm trạng đau xót của nàng .
Nàng tưởng tượng như có cơn lốc vừa thổi qua, và ngạc nhiên thấy phòng ăn vẫn yên ổn, vẫn không thay đổi, y hệt như trước nay. Bàn ăn, tủ trà bằng gỗ đào hoa tâm, muỗng nĩa bằng bạc nguyên chất, tấm thảm chói lọi trên nền nhà bóng loáng đều ở đúng vị trí quen thuộc của chúng, như chẳng có chuyện gì xảy ra. Đây là gian phòng thân thuộc, tiện nghi. Thường thường Scarlett yêu thích những giờ êm ấm lúc gia đình còn nán lại sau bữa ăn tối, nhưng hôm nay, nàng ghét nhìn thấy nó, và, nếu không ngại những câu hỏi sang sảng của cha, chắc nàng đã chuồn ra ngoài, xuống tiểu phòng làm việc của Ellen, ngồi trên trường kỷ khóc để vơi sầu.
Đó là gian phòng Scarlett thích nhứt nhà. Nơi đó mỗi sáng, sau bàn giấy cao nghệu, Ellen ngồi tính toán việc chi thu của đồn điền và nghe phúc trình của Jonas Wilkerson, viên quản gia. Gia đình cũng tề tựu ở đó để giết thì giờ trong khi Ellen tính sổ bằng bút lông, Gerald ngồi trong cái đu cũ kỷ, các cô gái thì chiếm giữ mấy cái gối lót đã phai màu của trường kỷ, vì móp méo nên không đặt ở phòng ngoài. Scarlett nóng lòng được ngồi một mình với Ellen và đặt đầu lên gối mẹ khóc cho thoả thích. Mẹ vẫn chưa về sao?
Nhưng rồi, có tiếng bánh xe vang rộn ràng trên đường trải đá, và có giọng thầm thì êm dịu của Ellen vọng vào khi bà cho người xà ích đi nghỉ. Mấy cha con cùng sốt ruột ngẩng đầu lên khi bà bước nhanh vào, váy đong đưa, nét mặt mệt nhọc và buồn bã. Cùng một lượt với bà mùi dầu sả thoang thoảng trong phòng, mùi hương lúc nào cũng bám theo những nếp xếp của áo bà, mùi hương luôn luôn nối liền tư tưởng của Scarlett với mẹ. Mammy theo sau vài bước, tay xách túi da, môi dưới xệ xuống, mày nhíu thấp. Mammy lẩm bẩm, giữ thấp giọng để người ngoài không nghe ra, nhưng đủ to để chứng tỏ sự bất bình!
− Tôi rất tiếc phải về quá trễ.
Ellen vừa nói, vừa gỡ khăn choàng trao cho Scarlett, nựng nhẹ gò má con.
Mặt Gerald sáng rực lên như bởi một ma thuật khi vợ ông bước vào. Ông hỏi:
− Đứa nhỏ được đặt tên Thánh chưa?
Ellen đáp:
− Rồi, và, tội nghiệp, nó đã chết. Tôi sợ Emmie cũng chết theo, nhưng tôi nghĩ là nó có thể sống được.
Mấy cô gái đưa mắt nhìn bà, ngạc nhiên dọ hỏi trong khi Gerald lúc lắc đầu một cách điềm tĩnh:
− Vậy cũng xong, thằng nhỏ đó chết là tốt, không còn nghi ngờ gì nữa, đứa con hoa...
− Khuya lắm rồi, mình cầu kinh ngay đi.
Ellen ngắt lời, thật êm ái đến nỗi nếu Scarlett không biết rõ mẹ, sự ngắt lời đó sẽ trôi qua mà nàng không cảm thấy có ẩn ý nào.
Thật là thú vị khi biết ai là cha đứa con của Emmie, nhưng Scarlett hiểu không bao giờ nàng được biết sự thật nếu chờ mẹ nói ra. Scarlett nghi cho Jonas Wilkerson, vì nàng thường thấy hắn đi chung với Emmie những buổi chiều tối. Jonas là người Yankee và độc thân. Chức vụ quản gia đã ngăn cản hắn không được giao thiệp với xã hội trong hạt. Không gia đình đàng hoàng nào trong hạt có thể gả con cho hắn, không người nào có thể kết thân với hắn ngoại trừ Slattery và bọn hạ lưu như vậy. Vì trình độ học vấn của hắn cao hơn Emmie nhiều bực nên hiển nhiên là hắn không muốn cưới cô ta, mặc dầu hắn thường đi chung với cô ta vào lúc hoàng hôn.
Scarlett thở dài, vì tính tò mò bén nhọn của nàng không được thoả mãn. Dưới mắt mẹ nàng, mọi việc chẳng đáng chú ý bao nhiêu cũng giống như chẳng hề xảy tới. Ellen làm ngơ trước tất cả những việc trái ngược với tư tưởng của riêng bà và cố gắng dạy Scarlett như vậy, nhưng kết quả chẳng bao nhiêu.
Ellen bước tới cái kệ trên lò sưởi lấy xâu chuỗi trong các hộp khảm xà cừ nhưng Mammy ngăn lại một cách quả quyết:
− Thưa bà Ellen, bà cần phải ăn một chút t'ước khi đọc kinh.
− Cám ơn Mammy, nhưng tôi không đói.
− Tôi sẽ tự tay dọn ăn cho bà và bà phải ăn mới được.
Trán nhăn tít vì bực dọc, bà bước xuống nhà bếp, gọi lớn:
− Po'k, bảo con bếp nhúm lửa, bà Ellen về 'ồi.
Trong khi sàn nhà rung rinh dưới sức nặng của bà, những lời lầm bầm của bà từ lúc mới trở về càng ngày càng lớn, rõ tận tai của mỗi người trong phòng ăn:
− Mình đã nói như vậy nhiều lần. Chẳng có ích gì khi giúp đỡ bọn da t'ắng không 'a gì đó. Chúng là thứ lười nhứt, bội bạc nhứt. Và bà Ellen lại đi giúp đỡ chúng. Cứ cho mấy đứa da đen săn sóc chúng là đủ 'ồi . Mình đã nói với bà Ellen là...
Giọng của bà kéo lên cho đến lúc bà bước vào hành lang chỉ lợp nóc đưa tới nhà bếp. Mammy có phương pháp riêng để phát biểu ý kiến chính xác của bà về mọi chuyện. Bà biết phẩm cách của người da trắng thượng lưu không cho phép họ để ý đến những lời lầm bầm trong miệng một người da đen. Bà biết rằng để bảo toàn cái phẩm cách đó, họ phải làm bộ không nghe những gì bà nói, dù bà có đứng ở gian phòng kế bên và la thật lớn. Điều đó tránh được cho bà mọi sự khiển trách mà mọi người vẫn có thể nghe được quan điểm của bà về một số vấn đề.
Pork bước vào phòng ăn, mang theo một cái dĩa, muỗng nĩa bằng bạc và một khăn ăn, theo sau là Jack, một đứa bé da đen 10 tuổi, hấp tấp gài nút chiếc áo khoác bằng nỉ trắng với một tay, còn tay kia thì cầm một phất trần đuổi ruồi làm bằng nhiều miếng giấy báo cắt nhỏ, cột ở đầu một cây sậy cao hơn nó. Ellen có một cây đuổi ruồi thật đẹp bằng lông công, nhưng nó chỉ được dùng trong những trường hợp đặc biệt, và bà phải chống lại với quan điểm của bọn gia nhân, vì theo chúng, lông công là điềm xui xẻo.
Ellen ngồi xuống chiếc ghế Gerald vừa đẩy tới cho bà, và bốn giọng nói tranh nhau mở lời:
− Má, áo dạ hội con sút ren rồi, con muốn bận nó ngày mai ở Twelve Oaks. Má có thể kết lại cho con chớ?
− Má, cái áo của Scarlett đẹp hơn của con, màu hồng làm cho con xấu như quỉ. Tại sao chỉ không mặc màu hồng và để cho con cái màu xanh của chỉ? Chỉ mặc màu hồng hợp lắm.
− Má, con có thể dự dạ vũ được không? Con mười ba tuổi rồi!
− Bà O'Hara ơi, bà có tin thế không... Suỵt, mấy đứa con gái, coi chừng ăn roi nghe! Cade Calvert vừa ở Atlanta về sáng nay... Mấy đứa bây có chịu im để tao còn được nghe tiếng nói của tao hay không?... Hắn nói tình trạng ở đó rất hỗn loạn, ai cũng nói về chiến tranh, tập luyện dân quân, thành lập quân đội. Và hắn nói, theo những tin từ Charleston, rằng họ sẽ làm cho quân Yankee không bao giờ phỉ báng mình được nữa...
Ellen mỉm cười mệt nhọc. Giữa những sự ồn ào đó, bà trả lời câu hỏi của chồng trước, đúng theo bổn phận của một người vợ:
− Nếu những người Charleston đáng kính ấy đã chọn đường lối kia thì tôi tin sớm muộn gì chúng ta cũng chọn cùng đường lối với họ.
Bà nói thế vì bà tin tưởng mãnh liệt rằng phần lớn những dòng máu quí phái của đại lục đều nằm trong thành phố hải cảng nhỏ xíu kia và đa số người Charleston đều đồng ý về điểm nầy.
− Không, Carreen, hãy đợi sang năm, con gái cưng. Lúc đó con mới có thể thức khuya để khiêu vũ, mặc quần áo người lớn, và con sẽ có một đôi má hồng thật đẹp. Đừng giận, con gái! Con dự dã yến được và có thể thức đến khi xong bữa ăn tối, nhưng không được dự dạ vũ khi con chưa tới mười bốn tuổi, hãy nhớ điều đó!
− Đưa cái áo con cho má, Scarlett, má sẽ vắt đăng ten lại khi cầu nguyện xong.
− Suellen, má không ưa cái giọng của con. Cái áo hồng rất dễ thương và hợp với màu da của con lắm, cũng như áo của Scarlett hợp với nước da của nó vậy. Tối nay má sẽ cho con mượn xâu chuỗi thạch lựu ngọc.
Suellen, đằng sau Ellen, đắc thắng nhăn mũi với Scarlett, vì nàng đã định xin mẹ đeo xâu chuỗi ấy. Scarlett thè lưỡi chọc lại, Suellen đúng là một cô em khó chịu với tánh ích kỷ và hay than van, và nếu Ellen không kềm giữ được, chắc chắn Scarlett đã nhiều lần bạt tai em. Ellen nói:
− Bây giờ, ông O'Hara hãy kể xem ông Calvert còn nói gì về Charleston nữa không?
Scarlett biết mẹ không hề quan tâm về những thứ như chánh trị, chiến tranh và nghĩ rằng đó là những chuyện của đàn ông, không người đàn bà nào có thể xen vào một cách thông thạo. Nhưng điều nầy làm cho Gerald thích thú được phô trương quan điểm của ông, và Ellen luôn luôn ân cần với những thú vui của chồng.
Trong khi Gerald nói huyên thuyên về những tin tức nghe được. Mammy đặt trước mặt bà chủ mấy dĩa bánh nướng, vàng óng, ức gà chiên và củ khoai mỡ vàng đã lột vỏ trộn chung với bơ lỏng bốc khói nghi ngút. Mammy véo Jack một cái, nó hấp tấp làm nhiệm vụ bằng cách phe phẩy nhè nhẹ cây đuổi ruồi phía sau Ellen. Mammy đứng bên cạnh bàn, nhìn mỗi miếng ăn đi vào miệng Ellen, làm như bà có ý định nhét các thức ăn ấy vào cổ Ellen nếu bà tỏ dấu chán ngán. Ellen cố gắng ăn, nhưng Scarlett thấy rõ là bà quá mệt nhọc tới nổi không biết mình đang ăn món gì. Chỉ có gương mặt lạnh như đồng của Mammy mới ép buộc bà làm như vậy được.
Khi dĩa đã cạn thức ăn và Gerald đang ở đoạn giữa những lời chỉ trích về bọn ăn cắp Yankee, muốn phóng nô mà chẳng chịu đóng góp một xu để trả giá sự tự do của chúng, thì Ellen đứng dậy.
Bà miễn cưỡng hỏi chồng:
− Chúng ta có thể cầu nguyện được chưa?
− Được, khuya rồi ! Ủa, đã mười giờ rồi kìa!
Đúng lúc đó, đồng hồ tường khúc khắc gõ mười tiếng bằng quả lắc thiếc.
− Carreen đáng lẽ phải ngủ lâu rồi. Mang đèn lại đây, Pork, và cuốn kinh của tôi, Mammy.
− Được.
Mammy nhắc bằng một giọng thì thào khàn khàn, Jack cất cây đuổi ruồi trong một góc và dọn dẹp mấy dĩa ăn, trong khi Mammy lục lọi trong những ngăn kéo tủ trà tìm quyển kinh Thánh cũ của Ellen. Pork nhón gót, với lên cái khoen xích và kéo chầm chậm ngọn đèn xuống cho tới khi trần nhà mất dạng trong bóng tối và mặt bàn tràn ngập ánh sáng chói chang. Ellen thu gọn váy và quì xuống sàn nhà, trải quyển kinh Thánh trên bàn ngay trước mặt và chắp tay lên đó. Gerald quì cạnh bên, Scarlett và Suellen vẫn ở chỗ quen thuộc của các cô ở bên kia bàn, gấp chiếc váy rộng chêm dưới gối để bớt đau vì sàn nhà quá cứng. Carreen vì tác nhỏ hơn tuổi, không thể quì một cách thoải mái trước bàn nên quì bên một cái ghế, chống khuỷu tay lên đó. Cô rất thích bộ vì nầy vì cứ thường ngủ gục trong khi cầu nguyện, cho nên trong tư thế đó, cô thoát khỏi sự chú ý của mẹ.
Đám gia nhân kéo nhau tập trung trong đại sảnh và quì ở ngưỡng cửa. Mammy suýt xoa hơi lớn tiếng khi quì xuống, còn Pork thì lưng thẳng như chày vồ. Rosa và Teena, hai cô gái hầu dịu dàng xoè váy vải màu tươi sáng, Cookie, gầy guộc và vàng vọt trong bộ quần áo cũ trắng lóng lánh và Jack khờ đi vì buồn ngủ, tránh xa khỏi Mammy để khỏi bị ngắt véo. Những đôi mắt đen của họ ngời chiếu niềm tin vì được cầu nguyện với chủ là một trong những việc quan trọng một ngày. Đối với họ, những câu kinh cổ và màu mè đó không có ý nghĩa gì hết nhưng vẫn làm thoả mãn một cái gì trong lòng họ, và họ thường lay động khi xướng họa những câu "Xin Đức Chúa Trời thương xót chúng con", "Xin đấng Christ thương xót chúng con".
Ellen nhắm mắt lại và bắt đầu cầu nguyện. Giọng của bà lúc vượt cao, lúc hạ xuống, lúc dịu đi như ru ngủ. Tất cả các mái đầu đều cúi xuống dưới vòm ánh sáng vàng rực của ngọn đèn, trong khi Ellen tạ ơn Thượng đế đã ban sức khoẻ và hạnh phúc cho ngôi nhà, cho gia đình và cho những người da đen của bà.
Khi bà chấm dứt những lời cầu nguyện cho những người sống dưới mái nhà Tara, cho cha mẹ, chị em, cho ba đứa con trai đã chết của bà, và "cho những linh hồn bất hạnh ở Tỉnh Tội Giới", bà siết chặt xâu chuỗi trong tay và bắt đầu lần hạt. Y như tiếng rì rào của một làn gió nhẹ, những lời xướng hoạ tuôn ra khỏi cổ họng người da trắng lẫn da đen.
"Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng tôi là kẻ có tội, khi nầy và trong giờ lâm tử".
Dù đang đau đớn, xót xa bởi không thể khóc lên được, một cảm giác âm trầm, êm dịu và bình an vẫn cứ tới với Scarlett trong những giờ phút đó. Nàng đã gạt bỏ được sự chán nản hôm nay và sự sợ hãi ngày mai, nhường chỗ cho một niềm hy vọng đột khởi. Không phải sự hướng thượng của nàng đối với Thượng đế đã mang tới cho nàng hương vị đó, vì đối với nàng Tôn giáo không có gì hơn là những lời thì thầm và cầu nguyện. Chính là sự nhìn thấy khuôn mặt thánh thiện của mẹ nàng xoay về ngai Chúa, các Thánh và Thiên thần của Ngài, và xin giáng phúc cho những người bà yêu thương đã cho nàng cảm giác đó. Khi Ellen khẩn cầu đấng Tối cao, Scarlett chắc chắn là Người cũng nghe thấy.
Ellen ngừng lại, và Gerald, chẳng bao giờ tìm ra xâu chuỗi của mình trong giờ cầu nguyện, len lén đếm trên mười đầu ngón tay.
Nghe âm thanh đều đều của cha, tư tưởng của Scarlett bắt đầu tản mác, không còn tự chế được . Nàng biết là phải tự vấn lương tâm.
Ellen đã dặn nàng, cứ mỗi ngày, nàng có bổn phận phải xét kỹ lương tâm để thú nhận tội lỗi, cầu xin Chúa Trời thứ tội và ban cho sức khoẻ để khỏi bao giờ tái phạm . Nhưng hôm nay, Scarlett lại tự vấn trái tim nàng .
Nàng giấu đầu trong lòng bàn tay để mẹ không nhìn thấy mặt, và những ý nghĩ của nàng buồn thảm quay về Ashley. Tại sao chàng lại định cưới Melanie trong khi thật lòng yêu nàng, Scarlett? Và trong khi chàng cũng biết là nàng yêu chàng? Tại sao chàng có thể chủ tâm bóp vỡ trái tim nàng?
Đột nhiên, một ý tưởng sáng lòe và mới mẻ, xẹt như sao chổi qua trí óc nàng :
− Ủa, Ashley đâu có biết là mình yêu chàng !
Suýt nữa nàng đã thở ra thật mạnh vì sự khích động bất ngờ đó. Tư tưởng nàng dừng lại như bị tê liệt một lúc lâu, hụt hơi trong một lúc rồi lại phóng sổ về phía trước.
− Làm sao chàng biết được? Mình luôn luôn tỏ ra kiêu kỳ, đứng đắn và cao quí trước mặt chàng, chàng có thể nghĩ mình chỉ coi chàng như một người bạn. Đúng rồi, chính vì vậy mà chàng không bao giờ tỏ tình với mình. Chàng nghĩ chàng đã yêu trong tuyệt vọng, chính vì vậy mà chàng trông có vẻ quá...
Scarlett hồi tưởng thật mau tới những lúc bắt gặp Ashley nhìn mình với một vẻ kỳ lạ, lúc đó đôi mắt xám như bức màn hoàn toàn che lấp cảm nghĩ của chàng như mở lớn ra, chứa đựng một vẻ thống khổ và tuyệt vọng.
"Chàng đau lòng vì cho rằng mình yêu Brent, Stuart hay Cade. Và có lẽ chàng đã nghĩ rằng nếu không cưới được mình thà làm vui lòng gia đình bằng cách cưới Melanie. Nhưng nếu Ashley biết mình yêu chàng ..."
Đầu óc hay thay đổi của nàng bắn vọt từ chỗ ngã lòng sâu xa nhứt lên đến cõi phấn khởi cuồng nhiệt . Đó là do bản tánh ít nói và lối xử sự lạ lùng của chàng. Chàng không hề biết lòng tự kiêu của nàng nổi dậy với sự tiếp sức do lòng thèm muốn tin tưởng của nàng, biến niềm tin thành sự thật. Nếu Ashley biết nàng yêu chàng, chàng sẽ hấp tấp đến với nàng ngay. Nàng chỉ còn ...
"Ồ", nàng suy nghĩ một cách say sưa, mấy ngón tay bấu vào trán. "Mình thật là ngốc, đã không nghĩ đến điều ấy sớm hơn! Mình phải nghĩ cách biểu lộ cho chàng biết. Chàng sẽ không thể cưới Melanie được nếu biết mình yêu chàng ! Làm sao chàng có thể làm như vậy được?..."
Scarlett giựt mình khi thấy Gerald chấm dứt đọc kinh và mẹ đang nhìn nàng chòng chọc. Nàng vội vã bắt đầu lần chuỗi một cách máy móc nhưng giọng nàng lạc hẳn vì xúc động khiến cho Mammy hé mắt nhìn với vẻ dò xét. Nàng vừa dứt cầu kinh thì Suellen và kế đó là Ellen tiếp tục, trí óc nàng lại phóng hết tốc độ tới những cảm nghĩ vừa đột nhập.
Bây giờ cũng chưa trễ lắm! Từ lâu, trong hạt người ta thường đàm tiếu về những vụ cô dâu hoặc chú rể bỏ trốn khi người thứ ba xuất hiện giữa lúc hai họ đang làm lễ cưới trước bàn thờ. Vả lại, lễ đính hôn của Ashley đã được loan báo đâu? Vậy là hãy còn đủ thì giờ!
Nếu giữa Ashley và Melanie không có tình yêu mà chỉ là sự giao kết từ lâu, thì tại sao chàng lại không thể huỷ bỏ lời giao kết nầy để cưới mình? Chắc chắn chàng sẽ làm vậy, nếu chàng biết mình, Scarlett, yêu chàng. Nàng phải tìm cách cho chàng biết. Nàng phải tìm ra một cách nào đó! Và rồi ...
Scarlett thình lình tỉnh mộng vì nàng bỏ qua mấy lời xướng họa theo kinh và Ellen nhìn nàng một cách trách móc. Vừa lấy lại điệu bộ, nàng vừa hé mắt liếc nhìn thật mau quanh phòng. Những dáng người quì gối, ánh phản chiếu dịu dàng của ngọn đèn, những bóng lờ mờ lắc lư của bọn da đen và ngay những vật quen thuộc mà nàng rất ghét nhìn cách đây một giờ, trong khoảnh khắc đều mang lại những sắc thái do những cảm xúc riêng của nàng. Và một lần nữa, gian phòng hình như là một nơi đáng yêu. Nàng sẽ không bao giờ quên giây phút và cảnh tượng nầy!
"Đức Mẹ trọn đời đồng trinh", mẹ nàng lâm râm đọc. Kinh kính mừng Maria bắt đầu, và Scarlett ngoan ngoãn tiếp:
− Cầu cho chúng ta.
Và Ellen với một giọng trầm dịu, ca tụng biểu tượng của Đức Chúa Trời .
Lúc còn bé, Scarlett thường coi Ellen đáng tôn kính hơn Đức Mẹ nữa. Có thể đó là một ý tưởng phạm Thánh, Scarlett thường mở hé mắt nhìn khuôn mặt ngẩng lên của mẹ chớ không nhìn gương mặt của Thánh mẫu lúc lặp lại những câu cũ rích: "Sức mạnh cho những kẻ bịnh tật", "Đức Bà tha thứ cho những kẻ có tội", "Đóa hường mầu nhiệm ..." đó là những ngôn từ đẹp đẽ, vì nó là biểu tượng của Ellen. Nhưng đêm nay vì khích động, Scarlett nhận thấy trong lễ cầu nguyện, trong những tiếng êm êm, những câu xướng họa thì thầm, một vẻ đẹp vượt lên trên tất cả những gì nàng đã từng chứng kiến. Và nàng dâng trái tim lên cho Thượng đế, thành thật tạ ơn Ngài đã mở một con đường dưới chân nàng, để đem nàng ra khỏi cảnh khốn cùng và tiến thẳng vào vòng tay của Ashley.
Khi tiếng Amen cuối cùng được đọc lên, tất cả cùng đứng dậy, hơi tê người một chút. Mammy gượng đứng dậy với sự giúp đỡ của Teena và Rosa, Pork lấy cuộn mồi lửa trên kệ, đốt đèn lên, rồi bước ra phòng ngoài. Đối diện với cầu thang là tủ đựng chén bát bằng gỗ hồ đào, vì quá lớn nên không sử dụng được trong phòng ăn. Bên trên mặt tủ có đặt nhiều đèn và một dãy chúc đài cắm sẵn nến. Pork thắp xong một ngọn đèn với ba ngọn nến rồi với vẻ trịnh trọng của một ngự tiền thị vệ trong nội cung, soi đèn cho đức Vua cùng Hoàng hậu về thư phòng, dẫn đoàn người lên thang, nâng cao ngọn đèn lên khỏi đầu. Ellen nắm vịn Gerald bước theo ông, mấy cô gái, mỗi cô cầm một chúc đài bước theo sau.
Scarlett về phòng, đặt giá nến lên nóc tủ kéo và lục lọi trong cái tủ ngầm ở tường kiếm bộ áo khiêu vũ cần phải khâu lại.
Kẹp áo trong tay, nàng im lặng băng qua phòng ngoài. Cửa phòng của cha mẹ vẫn còn hé mở. Nàng sắp sửa gõ cửa thì bỗng nghe giọng nói thật thấp nhưng nghiêm nghị của Ellen:
− Ông O'Hara, ông phải cho Jonas Wilkerson nghỉ việc.
Gerald to tiếng:
− Rồi tôi sẽ tìm đâu ra một đứa quản gia khác, không lường gạt của tôi lấy một xu?
− Phải đuổi nó lập tức, ngay sáng mai. Sam khổng lồ là thằng cai giỏi, nó có thể làm thế công việc cho đến khi ông mướn được người quản gia khác.
Giọng Gerald vang rõ:
− A ha! Tôi hiểu rồi, thì ra cái thằng Jonas xứng đáng của tôi đã thổi phình cái bụng...
− Phải đuổi hắn ngay.
Scarlett nghĩ thầm:
− Thì ra Jonas là cha của đứa bé con Emmie Slaterry. Ồ, đúng rồi, còn đoán xa đoán gần gì nữa đối với một tên Yankee và một đứa con gái da trắng đốn mạc.
Cẩn thận chờ cho tiếng càu nhàu của cha mình lắng xuống, Scarlett gõ cửa, trao cho mẹ cái áo rồi về phòng.
Trong lúc cởi áo ra và tắt nến, nàng phác họa một chương trình làm việc với đủ mọi chi tiết cho ngày mai. Đó chỉ là một chương trình đơn giản, rất hợp với đức tính của Gerald, nghĩa là rất quả quyết. Nàng không lơi mắt trước mục tiêu và chỉ nghĩ đến những bước trực tiếp nhứt để đạt được thành quả.
Trước tiên, nàng sẽ làm bộ "rất kiêu hãnh" như Gerald đã dạy. Ngay lúc đến Twelve Oaks nàng sẽ làm như tươi vui nhứt, không ai có thể ngờ là nàng đang đau xót về chuyện Ashley với Melanie. Nàng sẽ làm dáng với tất cả mọi người. Điều đó hơi tàn nhẫn đối với Ashley, nhưng nó sẽ làm cho chàng khao khát nàng hơn, nàng sẽ không bỏ qua một người đàn ông nào còn trong tuổi kén vợ. Từ Frank Kennedy râu đỏ, già xọm - kẻ trồng cây si Suellen - cho tới Charles Hamilton rụt rè mắc cở và trầm lặng, em của Melanie. Họ sẽ vây quanh nàng như con ong vầy quanh tổ, và Ashley sẽ rời Melanie để nhập bọn với những kẻ ái mộ nàng. Rồi nàng sẽ tìm cách nói chuyện riêng với Ashley vài phút, xa đám đông. Nàng hy vọng mọi việc sẽ xảy ra êm thấm và nếu không có thể sẽ khó khăn hơn. Và nếu Ashley không ngỏ lời trước thì chính nàng sẽ làm điều đó.
Cuối cùng, khi cả hai đã hoàn toàn riêng rẽ, chàng sẽ nhớ ngay tới hình ảnh những gã đàn ông mới chen lấn quanh nàng và Ashley sẽ cảm xúc hơn nữa với sự kiện tất cả những kẻ ấy đều ao ước chiếm được nàng. Và nét buồn thảm pha lẫn thất vọng của hôm nọ sẽ hiện lên ở mắt chàng. Bấy giờ nàng sẽ làm cho chàng khoan khoái trở lại bằng cách để cho chàng thấy nàng vẫn yêu thích chàng hơn mọi đàn ông trên thế giới. Và khi thú nhận điều đó, nàng sẽ làm ra khiêm tốn, dịu dàng và hàng ngàn phương cách khác nữa. Dĩ nhiên, nàng sẽ thực hiện tất cả những việc đó trong phạm vi của phụ nữ đoan trang. Nàng sẽ không mơ mộng mà nói một cách trơ tráo là yêu chàng, đó là một việc không đưa tới thành công. Nhưng chọn cách nào để nói vẫn là một chi tiết chẳng làm nàng bối rối bao nhiêu. Từ trước, nàng đã sắp xếp được những hoàn cảnh tương tự thì nàng vẫn có thể lại làm như thế dễ dàng.
Nằm dài trên giường, đắm mình trong ánh trăng, Scarlett hình dung suốt cảnh ấy . Nàng tưởng tượng tới sự ngạc nhiên và hạnh phúc hiện rõ trên mặt Ashley khi nàng xác định là nàng thật lòng yêu chàng và nàng sẽ được nghe những lời chàng phải nói để cầu hôn.
Tự nhiên là nàng sẽ trả lời rằng nàng không thể nghĩ tới chuyện kết hôn với một người đàn ông đã đính ước với một cô gái khác, nhưng chàng sẽ cố van nài và nàng sẽ làm như bị thuyết phục. Kế đó, cả hai cùng quyết định trốn đi Jonesboro ngay xế trưa hôm ấy và...
Ủa ! Trong đêm mai vào giờ nầy nàng có thể đã là bà Ashley Wilkes!
Scarlett ngồi bật dậy trong vòng tay ôm gối và trong lúc lâu tràn ngập hạnh phúc, nàng thấy mình đã là bà Ashley Wilkes - vợ của Ashley! Nhưng một cảm giác lạnh buốt bỗng xua tới. Nếu mọi việc không tiến hành theo một chiều thuận lợi? Nếu Ashley không khẩn cầu nàng trốn đi với chàng? Nàng xua đuổi một cách quả quyết tư tưởng đó ra khỏi óc.
"Mình sẽ không nghĩ tới chuyện đó bây giờ, nó sẽ làm mình rối trí lên mất. Chẳng có lý do gì mọi việc sẽ không xảy ra theo chiều hướng mong muốn của mình, nếu chàng yêu mình. Và mình biết chàng phải yêu mình."
Nàng ngẩng càm lên, và đôi mắt xanh viền mi đen lấp lánh ánh trăng, Ellen chưa bao giờ nói với nàng rằng điều ước mơ và sự thành tựu là hai việc rất khác nhau. Cuộc sống chưa dạy nàng rằng kẻ thắng cuộc đua không phải chỉ là những người mau nhứt . Nàng nằm xuống trong ánh bạc với lòng can đảm vượt lên, và phác họa những dự định của một cô gái 16 tuổi, mà cuộc đời thật hoàn mỹ, đến nỗi thất bại chỉ là một chuyện không tưởng, còn một cái áo đẹp hay một làn da mịn màng mới là khí giới để chiến thắng số phận.

Ruồi trâu - chương 3

Thu và đông trôi qua không có việc gì xảy ra. Áctơ học rất chăm nên chẳng mấy lúc rỗi. Tuy vậy mỗi tuần một hoặc hai lần, anh vẫn bớt thời giờ tới thăm cha Môngtaneli. Đôi khi Áctơ mang sách đến nhờ giảng những đoạn khó, và những lúc ấy câu chuyện chỉ xoay quanh nội dung của đoạn văn thôi. Cảm thấy một hàng rào vô hình đã ngăn cách hai người, Môngtaneli cố tránh mọi cái gì tỏ ra mình muốn giữ lại sự thân mật xưa kia. Việc Áctơ đến thăm bây giờ chỉ đem lại cho Môngtaneli nhiều đắng cay hơn là sung sướng. Chịu đựng tình trạng luôn căng thẳng, làm ra vẻ bình tĩnh và đối xử y như không có việc gì xảy ra thì thật là khó. Áctơ cũng nhận thấy là sự thay đổi tế nhị trong cách đối xử của cha và phảng phất cảm thấy rằng điều đó có liên quan gì tới câu chuyện nặng nề về “những tư tưởng mới” của mình, nên cũng tránh nhắc tới điều mình hằng suy nghĩ ấy.

Nhưng dù sao Áctơ vẫn chưa bao giờ yêu Môngtaneli một cách thắm thiết như bây giờ. Trước kia, khi cảm thấy vướng mắc và trống rỗng trong tâm hồn thì Áctơ dốc sức nghiên cứu khoa học thần học, làm đúng lẽ đạo dạy để xua tan những cảm giác ấy. Nhưng từ khi tiếp xúc với “nước Ý trẻ” (1) thì cảm giác ấy đã tan đi không để lại vết tích nào.

Tính mơ mộng ốm yếu do nỗi cô đơn và do những đêm săn sóc mẹ bên giường bệnh cùng với những mối hoài nghi trước kia, Áctơ dùng khấn cầu để lẩn trốn, nay cũng không còn nữa. Cùng một lúc với sự say mê mới, với một lí tưởng mới và rõ hơn về tôn giáo (vì trong phong trào sinh viên, Áctơ không chỉ thấy cơ sở chính trị mà còn thấy nhiều hơn về cơ sở tôn giáo), Áctơ còn có một cảm giác bình tĩnh, thấy lòng thoải mái, tâm hồn thảnh thơi, yêu mến mọi người. Đối với Áctơ toàn thế giới chói loà ánh sáng mới. Áctơ đã tìm thấy những khía cạnh mới rất đáng yêu trong con người, ngay cả ở những người mà trước kia Áctơ lấy làm khó chịu. Năm năm qua, Môngtaneli đối với Áctơ là một người anh hùng lí tưởng thì ngày nay Áctơ có cảm tưởng rằng Môngtaneli là một nhà tiên tri tương lai của tín ngưỡng mới, đang mang theo một đạo hào quang mới trên đầu. Áctơ say sưa nghe cha giảng đạo, cố tìm ra mối quan hệ huyết mạch của những câu giảng đạo ấy và những lí tưởng cộng hoà. Áctơ cố gắng nghiên cứu kinh thánh và rất vui sướng với khuynh hướng dân chủ của đạo Cơ đốc sơ kì.

Một ngày tháng giêng, Áctơ đến trường dòng để trả sách. Thấy cha giám đốc đi vắng, anh bèn vào phòng làm việc riêng của Môngtaneli. Áctơ đặt sách lên giá, định bước ra thì bỗng thấy một quyển sách nằm trên bàn giấy. Đó là tuyển tập “De Monarchia” (2) của Đăngtơ. Áctơ cầm lấy đọc và phút chốc đã mê mải đến nỗi cửa mở ra rồi đóng lại mà anh vẫn không hay. Chỉ mãi tới khi sau lưng vang lên tiếng nói của Môngtaneli thì Áctơ mới ngừng đọc.

Cha liếc nhìn tên sách rồi nói:

- Không ngờ hôm nay con lại đến. Cha vừa định cho người hỏi xem tối nay con có đến được không.

- Có gì quan trọng hở cha? Tối nay con có hẹn nhưng nếu...

- Thôi, mai cũng được. Cha muốn được gặp con. Thứ ba này cha đi rồi. Cha được triệu về La Mã.

- Về La Mã ư? Có lâu không?

- Trong thư chỉ nói là “tới sau lễ phục sinh” thôi. Thư của Vaticăng. Cha đã định cho con biết, nhưng lúc thì cha bận, lúc thì chuẩn bị đón giám đốc mới.

- Thưa cha, con chắc cha không rời bỏ trường này?

- Đành phải đi thôi. Nhưng cha còn về Pidơ nữa. Ít nhất là về một thời gian.

- Nhưng tại sao cha lại bỏ trường?

- Ấy... Bề trên định phong cha làm giám mục, nhưng lệnh đó còn chưa được công bố chính thức!

- Nhưng cha được bổ nhiệm ở đâu cơ?

- Chính vì thế mà phải về La Mã mới biết được. Chưa quyết định hẳn là cha sẽ làm giám mục ở địa phận vùng núi Apenanh hay làm giám mục tại đây.

- Thưa cha, cha giám đốc mới được bổ nhiệm chưa?

- Rồi, đó là cha Cácđi. Mai sẽ đến.

- Thật là đột ngột quá!

- Ừ... nhưng quyết định của Vaticăng thường đến phút cuối cùng mới được công bố.

- Cha có quen cha giám đốc mới không?

- Cha không quen biết riêng, nhưng nghe người ta khen cha ấy lắm. Đức giám mục Belôni viết thư cho cha, nói cha Cácđi học vấn rất uyên thâm.

- Cha đi thì trường sẽ thiệt thòi nhiều lắm.

- Cha không biết trường sẽ ra thế nào, nhưng con thân yêu, chắc con sẽ cảm thấy thiếu cha. Có lẽ cũng gần như cha cảm thấy thiếu con vậy.

- Vâng. đúng thế. Nhưng dù sao con cũng mừng cho cha.

- Mừng ư con? Còn cha thì cha không biết cha có mừng không.

Môngtaneli ngồi vào bàn, vẻ mặt bơ phờ như thực sự không vui mừng gì về chức trọng quyền cao mà mình sắp được thụ phong, bổ nhiệm.

Sau giây lát yên lặng. Môngtaneli bắt đầu nói:

- Áctơ, chiều nay con có bận gì không? Nếu không con hãy ở lại với cha, vì tối nay con không đến thăm cha được. Cha thấy bứt rứt trong người. Cha muốn trước khi đi còn được gần con nhiều hơn.

- Được ạ. Nhưng đến 6 giờ con sẽ phải đi...

- Đi họp phải không?

Áctơ gật đầu, Môngtaneli vội chuyển ngay đầu đề câu chuyện:

- Cha muốn nói đến việc của con. Khi cha không ở đây con cần có một cha linh hồn cho con.

- Khi nào cha trở về thì con sẽ có thể xin cha giải tội cho cơ mà?

- Sao con lại nói thế, carino? Đây là cha chỉ nói thời gian ba tháng bốn tháng mà cha đi vắng. Con có ưng một cha ở nhà thờ Đức bà Catarina (3) giải tội cho con không?

- Xin vâng.

Họ nói chuyện với nhau chút ít về những việc khác. Rồi Áctơ đứng dậy:

- Thưa cha, con đi đây. Anh em họ đang đợi con.

Một vẻ thẫn thờ lại hiện trên gương mặt Môngtaneli.

- Đã đi ngay ư? Thế mà vừa rồi cha tưởng đã thoát khỏi những ý nghĩ đen tối. Thôi được con đi.

- Kính chào cha. Nhất định mai con sẽ đến.

- Con có thể đến sớm một chút để cha kịp gặp riêng con. Mai cha Cácđi tới... Áctơ yêu quý, cha xin con hãy thận trọng, điều gì chưa nghĩ kĩ thì chưa nên làm, ít nhất là cho tới khi cha trở lại. Con chưa rõ lòng cha lo cho con biết chừng nào khi cha không ở đây!

- Thưa cha, cha đừng lo. Vạn sự đều bình yên cả, và còn bình yên lâu.

- Thôi, con đi.

Môngtaneli giật giọng nói như vậy rồi cúi đầu trên bàn viết.

*

* *

Bước vào phòng họp của sinh viên, người mà Áctơ trông thấy đầu tiên chính lại là con gái bác sĩ Uaren, bạn gái của Áctơ từ thời còn để chỏm. Cô ngồi bên cửa sổ tận góc phòng, đang chăm chú nghe một thanh niên cao lớn mặc bộ quần áo cũ kiểu Lômbácđi, nói chuyện. Anh ta là một trong “những người khởi xướng” của phong trào. Mới qua mấy tháng mà cô bé khác hẳn trước: lớn lên và trở thành một thiếu nữ đến thì. Chỉ còn đôi bím tóc to và đen sau lưng cô là gợi lại hình ảnh một nữ sinh thuở bé. Cô bận toàn đen, đầu cũng quàng một chiếc khăn đen vì gió lạnh lùa manh vào phòng họp. Trên ngực cô đeo một cành bách nhỏ, huy hiệu của “Nước Ý trẻ”. Anh thanh niên người Lômbácđi đang say sưa nói về những nỗi đói khổ của nông dân Calabơri (4). Còn cô gái thì ngồi nghe, tay chống cằm, mắt nhìn xuống sàn. Nhìn cô, Áctơ thấy hiện ra trước mắt một cảnh đau buồn. Thần Tự do đang khóc than nền cộng hoà đã mất. (Vậy mà Giuli cứ chê bai nào là một cô gái cao quá khổ, nào mặt tái, mũi dô, nào chiếc áo ngoài đã cũ và ngắn cũn cỡn.)

Khi có người gọi chàng thanh niên Lômbácđi ra đầu phòng kia, Áctơ lại gần cô gái nói:

- Dim, cũng ở đây à?

Dim – đó là tên hồi nhỏ và là tên gọi tắt của Diniphơ, tên đặt lúc rửa tội. Bạn gái người Ý thường gọi cô ta là Giêma.

Dim ngẩng đầu và ngạc nhiên:

- Áctơ! Ồ, tôi không biết là anh cũng ở đây!

- Tôi cũng không ngờ lại gặp Dim ở đây. Dim ạ! Từ hồi nào...

Cô vội ngắt lời:

- Không, anh ạ. Tôi chưa phải là đảng viên. Tôi mới làm được vài ba công tác nhỏ thôi. Tôi có quen với Bini... Anh chắc biết Cáclô Bini chứ?

- Tất nhiên có.

Bini là người lập ra chi bộ Livoócnô, trong “nước Ý trẻ” ai cũng biết anh ta.

- Ấy, chính Bini nói chuyện với tôi về việc này. Tôi liền yêu cầu Bini cho dự cuộc hội nghị sinh viên. Sau Bini có viết thư đến Phơlorăngxơ (5) cho tôi... tôi có dự lễ Nôen tại Phơlorăngxơ, anh có biết không nhỉ?

- Không, dạo này tôi ít được tin nhà lắm.

- À, ừ nhỉ... Thế là tôi liền đi Phơlorăngxơ để gặp chị em Raitơ (chị em Raitơ là bạn học cũ của Giêma). Khi đến nơi Bini lại viết thư cho tôi lúc về thì ghé qua Pidơ, vì thế hôm nay tôi mới đến đây... Kìa bắt đầu rồi...

Bản báo cào và phần thảo luận dài tiếp theo đã xong, các sinh viên bắt đầu giải tán thì Áctơ trở lại chỗ Giêma lúc nãy vẫn ngồi trong góc phòng.

- Tôi đưa Dim về nhé. Dim ở với ai?

- Tôi ở nhà Marietta.

- Bà quản gia cũ nhà Dim đấy ư?

- Phải, cũng khá xa đấy.

Họ đi trầm ngâm một hồi lâu. Áctơ bỗng hỏi:

- Dim bao nhiêu tuổi rồi, mười bảy phải không?

- Tháng mười năm qua mười bảy tuổi tròn.

- Lúc nào tôi cũng nghĩ rằng khi lớn lên Dim chẳng say mê nhảy nhót như các cô gái khác đâu.

Dim thân yêu, tôi luôn tự hỏi không biết Dim sẽ có trong hàng ngũ của chúng ta không nhỉ?

- Tôi cũng nghĩ như thế đấy.

- Dim nói Bini đã giao công tác cho Dim. Vậy mà tôi không hề biết là Dim có quen cả Bini.

- Có phải tôi làm giúp Bini đâu, làm giúp người khác kia.

- Giúp ai?

- Giúp Bôla, người nói chuyện với tôi lúc nãy.

- Dim có quen Bôla lắm không?

Giọng nói của Áctơ có chút ghen tị. Anh chẳng ưa người ấy. Hai người ganh nhau làm một công tác, nhưng sau ban chấp hành “nước Ý trẻ” giao cho Bôla làm vì cho rằng Áctơ còn quá trẻ và thiếu kinh nghiệm.

- Cũng khá thân. Tôi mến anh ấy lắm. Anh ấy có ở Livoócnô.

- Tôi biết... Anh ấy đến Livoócnô vào khoảng tháng một.

- Phải, đến đợi tàu (6). Áctơ, chắc dùng chỗ nhà anh ở để làm việc này thì an toàn hơn. Không ai nghi ngờ một nhà chủ hãng tàu giàu có như nhà anh. Với lại anh còn quen biết mọi người trên bến nữa.

- Khẽ chứ, đừng nói to thế, Dim thân yêu! Thế ra tài liệu từ Mácxây tới vẫn giấu ở nhà Dim ư?

- Chỉ để ở đấy một ngày thôi... Nhưng có lẽ không nên nói với anh chuyện này thì phải nhỉ?

- Sao lại không? Dim cũng biết tôi là người của đoàn thể kia mà. Giêma thân yêu, nếu Giêma và… đức cha cùng đi theo chúng tôi thì tôi không có gì sung sướng hơn trên đời này!

- Đức cha của anh ấy à, chẳng lẽ ông cũng...

- Không, cách nghĩ của đức cha khác hẳn. Nhưng đôi khi tôi vẫn nghĩ... Tôi hi vọng rằng…

- Áctơ, ông ấy là cố đạo kia mà!

- Thì đã sao? Trong tổ chức của chúng ta cũng có cả các cha chứ. Có hai cha đang viết báo cho chúng ta (7). Mà như thế có sao đâu! Vì sứ mệnh của giáo sĩ là dẫn thế gian tới những lí tưởng và mục đích cao cả. Xã hội chúng ta chẳng nhằm tiến tới đó hay sao? Rốt cuộc chính là vấn đề tôn giáo và luân lí hơn là vấn đề chính trị. Vì nếu người ta muốn trở thành công dân tự do và có trách nhiệm thì không ai có thể nô dịch họ được.

Giêma nhíu mày lại:

- Áctơ, tôi có cảm tưởng là luân lí của anh có chỗ nào lầm lẫn đấy. Cha cố cổ động học

thuyết tôn giáo. Tôi thấy cái đó chẳng dính dáng gì đến việc chúng ta tự giải phóng mình khỏi ách nước Áo cả.

- Các cha là người cổ động cho đạo chúa Giêsu; mà chúa Giêsu là người vĩ đại nhất trong các nhà cách mạng.

- Anh biết không, tôi có nói chuyện với cha tôi về vấn đề cha cố, ngay cả cha tôi cũng...

- Nhưng cha Giêma theo đạo Tin lành kia mà.

Sau khoảnh khắc im lặng, cô mạnh dạn nhìn thẳng vào mắt Áctơ:

- Thôi đừng nói chuyện ấy nữa thì tốt hơn. Hễ nói về đạo Tin lành là bao giờ anh cũng có vẻ khó chịu lắm.

- Không phải thế đâu. Chính người theo đạo Tin lành khó chịu khi nghe nói tới người theo đạo

Thiên chúa thì có.

- Thôi thì cứ coi là như thế. Nhưng chúng ta đã tranh cãi quá nhiều vấn đề này rồi, không cần trở lại nữa... Anh có thích buổi nói chuyện hôm nay không?

- Thích lắm, nhất là đoạn cuối. Hay nhất là lúc báo cáo viên nhấn mạnh: chúng ta không nên chỉ mơ ước một nền cộng hoà, mà phải hiện thực những lí tưởng cộng hoà! Điều đó đúng với học thuyết của chúa Giêsu: “Thiên đàng là ở trong lòng chúng ta”.

- Chính đoạn ấy tôi lại không thích. Báo cáo viên nói quá nhiều về những điều kì diệu mà chúng ta phải cảm nghĩ, nhưng không vạch ra cụ thể những cái mà chúng ta phải làm.

- Khi thời cơ đến chúng ta sẽ có khối việc mà làm. Chúng ta phải kiên nhẫn. Những biến cố vĩ đại không thể xảy ra ngay trong một ngày được.

- Nhiệm vụ càng lâu dài càng phức tạp thì càng có lí do để bắt đầu ngay từ lúc này. Anh nói cần phải chuẩn bị mình đầy đủ để hưởng tự do. Thế nhưng có ai là người đầy đủ để hưởng tự do hơn mẹ anh? Bà chẳng phải là một người hiền hậu bậc nhất đó sao? Nhưng lòng tốt của bà đã đưa bà đến đâu? Bà chỉ là một người nô lệ cho tới ngày cuối cùng của đời mình. Vì vợ chồng anh Giêmxơ mà bà đã phải chịu đựng bao nhiêu dằn vặt, đay nghiến. Nếu bà không dịu dàng, không kiên nhẫn chịu đựng đến thế thì chắc bà đã sống dễ chịu hơn, người ta không dám đối xử với bà tệ bạc đến thế! Đối với nước Ý cũng vậy: không phải là nhẫn nhục mà phải là đứng lên bảo vệ quyền lợi của mình.

- Dim thân yêu, nếu tức giận và nhiệt tình có thể cứu vãn được nước Ý thì nước Ý đã tự do từ lâu rồi. Nước Ý không cần hận thù mà cần tình yêu.

Máu bỗng bốc mạnh lên mặt anh rồi lại lắng xuống, khi anh nói lên câu cuối cùng. Nhưng Giêma không nhận thấy. Nàng nhìn thẳng về phía trước, nhíu mày, mím môi.

Sau giây lát im lặng, Giêma nói:

- Áctơ, chắc anh cho là tôi sai. Nhưng không, tôi đúng chứ không sai đâu. Rồi một ngày kia anh sẽ rõ... Tới nhà Marietta rồi. Anh có vào chơi không?

- Không, khuya rồi. Thôi, chào Dim thân yêu!

Anh đứng ở thềm, hai tay anh nắm chặt lấy tay Giêma.

- “Vì thượng đế và nhân dân...”

Và Giêma cũng chậm rãi và trịnh trọng đọc tiếp câu khẩu hiệu:

- “…trung thành suốt đời”.

Rồi nàng rút tay ra, chạy vào nhà. Khi cánh cửa đã khép lại, Áctơ cúi nhặt cành bách nhỏ vừa rơi xuống từ ngực nàng.

Chú thích:

(1) Nước Ý trẻ: tên một đảng cách mạng của tiểu tư sản, dưới sự lãnh đạo của Giudéppê Mátdini lập ra năm 1831 ở Thuỵ Sĩ để đấu tranh giải phóng nước Ý khỏi ách thống trị của Áo, thống nhất đất nước và lập ra nền cộng hoà Ý.

(2) Luận về chính thể quân chủ: tác phẩm của nhà thơ người Ý Alighêri Đăngtơ (1265 – 1321), chủ trương thủ tiêu tình trạng phong kiến phân quyền của nước Ý, bằng cách lập một nền quân chủ thống nhất, và công kích Giáo hoàng La Mã định can thiệp vào chính quyền trong xã hội. Trong thế kỉ XIX, sách này bị Giáo hoàng cấm.

(3) Nhà thờ Đức bà Catarina (tiếng Pháp: Sainte Catherine) Nhà thờ bà thánh Catơrin ở Pidơ.

(4) Calabơri: Vùng núi trong vương quốc Nêapôn, miền nam nước Ý.

(5) Phơlôrăngxơ: thủ đô của công quốc Tôxcan, thành phố đẹp nổi tiếng nước Ý.

(6) Hồi ấy Mátdini xuất bản tờ báo “Nước Ý trẻ” tại Mácxây (Pháp). Báo này và những tài liệu chính trị do tổ chức bí mật xuất bản ngầm đưa từ Mácxây về Livoócnô.

(7) Tức là tờ “Nước Ý trẻ”.

Bài mẫu thư UPU lần 48: “Hãy viết một bức thư về người hùng của em” (Tiếng Anh: Write a letter about your hero) dành cho các em học sinh dưới 15 tuổi.

 “Hãy viết một bức thư về người hùng của em” (Tiếng Anh: Write a letter about your hero) dành cho các em học sinh dưới 15 tuổi. Mẫu thư U...