Saturday, December 23, 2017

ĐỢI NGƯỜI KHI MÙA HOA GẠO NỞ


ĐỢI NGƯỜI KHI MÙA HOA GẠO NỞ

Người ta nói bác tôi "điên vì tình".
***



Sáng nào cũng vậy, tôi thường nhờ âm thanh chói tai quen thuộc ấy đánh thức như một thứ chuông báo thức miễn phí. Khó chịu, nhưng dần dà cũng quen.
- Khà khà..a..a... Bèo dạt mây..ư... trôi, trốn xa xôi, anh ơi...em vẫn đợi vẫn chờ... Hà hàaa...
Ghé đầu qua khe cửa he hé, vẫn thân hình nhỏ bé đến tội đưa chén rượu lên mũi, hít hà một hơi rồi dốc cạn không để lại giọt nào. Uống cạn chén rượu, bác liêu xiêu đứng dậy, đưa bàn tay gầy guộc, đen đúa và chai sạn lên, khuôn mặt cố nặn ra một thứ gọi là cười
- Chào!
Bố tôi xua xua tay
- Thôi chị về đi cho tôi còn bán hàng.
Bác quay đi, hướng về căn nhà nhỏ xiêu vẹo đang hiện dần trong ánh sáng ban mai, vừa đi vừa hát. Vẫn câu hát quen thuộc, vẫn điệu cười ha hả đánh thức cả làng.
Bố tôi nhìn mẹ chép miệng, mẹ chỉ thở dài rồi quay lại với nồi bánh cuốn đang bốc hơi nghi ngút.
Bác là bác họ hàng xa của tôi, từ khi biết nhận thức mọi thứ xung quanh, tôi đã thấy người ta gọi bác bằng cái biệt hiệu không mấy thiện cảm "điên".
Phải, bác tôi là người không bình thường, không bình thường đến tội nghiệp.
Có những người xem thường bác, chửi bác là con nghiện rượu, con ma xó, con điên và trăm thứ biệt danh, ngôn ngữ khinh bỉ khác. Bác vẫn cười khà khà, đi lướt qua mặt họ như  xem những lời tục tĩu, thô tục ấy là tiếng muỗi vo ve.
Tôi cũng đã từng có cái ý nghĩ xấu xa, ích kỷ và tầm thường như biết bao con người ấy. Cái ý nghĩ mà mỗi lần nhớ đến tôi thấy hổ thẹn.
Lần ấy trên đường đi học về, tôi thấy bác ngồi thẫn thờ bên bờ sông. Rồi bỗng dưng bác đứng phắt dậy. Ban đầu là bước đi từ từ, sau đó nhanh dần rồi như chạy, đôi chân trần đạp từng bước thật mạnh trên con đường đầy những viên đá sỏi lô nhô. Bác đang đuổi theo người đàn ông phía trước. Nhìn từ đằng sau, người đàn ông có mái tóc rối hù, áo quần bám đầy dầu xe và bụi bặm. Ông cao và gầy gò, những bước chân có phần xiêu vẹo và mệt mỏi.
Bác tôi chạy nhanh tới trước mặt người đàn ông xa lạ, bác cười, cười hiền lắm. Tôi chưa từng thấy bác cười như thế. Cho đến bây giờ tôi vẫn không sao quên được nụ cười của bác hôm ấy.
Nhưng nụ cười ấy lụi dần rồi tắt hẳn.
Người đàn ông tỏ ra khó chịu, chửi thề rồi bỏ đi.
Bác tôi lại cười. Nhưng là nụ cười khà khà méo xệch thường trực.
Khi người đàn ông ấy khuất sau lũy tre làng, bác lê đôi chân nặng trĩu quay đi, ngửa mặt lên trời cười không ngớt. Bộ quần áo nhàu nhĩ, cũ mèm, bạc thếch theo thời gian còm cõi bước đi.
Ngày ấy, trong đầu đứa con nít không hiểu chuyện, như vậy gọi là "điên". Mỗi lần thấy bác tôi đều trốn sau lưng mẹ. Lớn thêm một chút, tôi tỏ ra khó chịu mỗi lần nghe bác lải nhải chuyện trên trời dưới biển, chuyện nhà cô này hôm qua bị mất con gà, con nhà bà kia hư đốn, nghiện ngập, phá của... Và đến bây giờ mỗi lần thấy bác tôi chỉ thấy xót xa.
Đôi vai ấy đã chịu biết bao dày vò, gánh nặng cuộc sống khiến nó oằn xuống.
Câu chuyện của bác tôi chỉ được nghe bố mẹ kể lại.
Hơn 30 năm trước, bác tôi cũng như bao người phụ nữ thôn quê khác, hiền lành, nhu mì và chăm chỉ. Trong làng, bác cũng có tiếng là xinh đẹp. Là con đầu trong một gia đình có tới sáu người con, khi còn trẻ, bác phụ cha mẹ nuôi năm người em ăn học. Khi từng cô bạn bằng tuổi bác lập gia đình, sinh con đẻ cái, bác vẫn một mình. Hết lo phụng dưỡng cha mẹ già lại lo cưới vợ, gả chồng cho các em. Cha mẹ, các em khuyên bác lấy chồng, bác chỉ cười cho qua chuyện.
Mình bác ngày hai buổi chợ, đi đi về về lầm lũi như một chiếc bóng.
Đến một ngày, người ta nhìn thấy bác thẹn thùng cười nói với anh thợ sửa xe ở đầu làng, cha mẹ vun vén, các em động viên, bác tôi đỏ mặt gật đầu đồng ý.
Không ai biết anh thợ sửa xe ấy là ai và từ đâu đến, chỉ thấy một ngày anh ta dựng lều ngay đầu làng và treo bảng nhận sửa xe. Anh thợ nói giọng Nam, người dong dỏng cao, có mái tóc rối hù và quần áo luôn lấm lem dầu mỡ. Ngày ngày, bác tôi vẫn mang cơm ra đầu làng, trong căn lều lụp xụp luôn tràn ngập tiếng cười.
Ngày cha mẹ bác tôi cho phép mối nhân duyên, anh thợ sửa xe vốn hiền lành, chịu khó xin được về nhà thưa chuyện với cha mẹ và hẹn ngày mang sính lễ tới đón bác tôi.
Ngày chia tay, dưới gốc cây gạo đầu làng, bác tôi mỉm cười vẫy tay rồi vội vã quay đi giấu những giọt nước mắt nghèn nghẹn.
Thời gian qua đi, ngày hẹn đến, gà chưa gáy sáng, bác tôi đã đứng đợi ở đầu làng. Đợi mãi, đến tận trưa khi nắng lên tới đỉnh, nắng gắt như thiêu đốt làn da trắng hồng của bác, bác vẫn nép người dưới gốc cây gạo, đôi mắt hướng về phía xa xăm. Sáng, rồi trưa, tới tận tối mịt mà người vẫn không thấy đâu. Cha mẹ bác đi ra đi vào, thở dài thườn thượt.
Bác tôi cứ tự dặn lòng rồi ngày nào cũng đứng dưới gốc cây gạo đầu làng chờ đợi.
Đợi từ ngày này qua ngày khác...
Tháng này qua tháng khác...
Năm này qua năm khác...
Hoa gạo nở rồi lại tàn. Người không thấy đâu mà mái tóc bác tôi đã pha thêm sợi bạc. Thỉnh thoảng người ta thấy bác lẩm nhẩm hát, đôi khi thấy bác tôi cười như ngây dại.
Thời gian qua đi, tên bác đã gắn liền với tiếng "điên" từ lúc nào.
Người ta nói bác tôi "điên vì tình".
Những người trong làng ác miệng chửi bác tiếng "điên" nhưng ở đời đã mấy ai điên vì tình? Đã mấy ai bỏ cả đời để chờ đợi một người trong vô vọng? Bác tôi đã đánh mất cả tuổi thanh xuân, đánh mất chính mình chỉ vì một chữ "yêu". Yêu đến ngây ngốc, yêu đến điên dại, cả cuộc đời chỉ chờ đợi một người trong vô vọng.
Tôi khâm phục bác, trân trọng cái gọi là "tình yêu" trong con người bác, tình yêu không toan tính, vụ lợi. Bất chấp tất cả, bất chấp thời gian, tuổi tác khắc khoải...dường như bác tôi chỉ sống vì tình yêu thủy chung, sống để chờ đợi.
Mỗi năm, khi hoa gạo nở đỏ rực, ngày nào bác cũng ra đầu làng đứng đợi người xưa, cây gạo đã già cỗi, nhưng người thì mãi không thấy trở lại.
...
- Bèo dạt mây... trôi, chốn xa xôi, anh ơi...em vẫn đợi vẫn chờ...
Tôi nhìn theo bóng bác bước về phía đầu làng. Vẫn câu hát quen thuộc bác đã hát bao năm nay, vẫn dáng hình gầy gò đến tội nghiệp, vẫn chiếc bóng bé nhỏ liêu xiêu trong sắc hoàng hôn đỏ thẫm cô quạnh. Bác tựa người vào thân cây sần sùi, đôi mắt nhìn xa xăm, ngửa mặt lên trời cười như tất thảy chỉ là hư ảo...
Trinh Trang
Nguyon: truyenngan.com

ĐỀ KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG HỌC KỲ I MÔN: NGỮ VĂN 10


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
V-16-17 ĐỀ KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG HỌC KỲ I
MÔN: NGỮ VĂN 10
Thời gian làm bài: 90 phút  

ĐỀ BÀI:
Câu 1 (3,0 điểm) Cho đoạn văn sau:
      “ Thêm một tuổi đời, vậy là cái tuổi ba mươi đâu còn xa nữa. Vài năm nưa thôi mình sẽ trở thành một chị cán bộ già dặn đứng đắn Nghĩ đến đó mình thoáng thấy buồn. Tuổi xuân của mình đã qua đi trong lửa khói, chiến tranh đã cướp mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ. Ai lại không tha thiết với mùa xuân, ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắt và trên đôi môi căng mọng khi cuộc đới còn ở tuổi hai mươi? Nhưng… tuổi hai mươi của thời đại này đã phải dẹp lại những ước mơ hạnh phúc mà lẽ ra họ phải có…”
(Nhật kí Đặng Thùy Trâm – NXB Hội Nhà Văn, 2005)
Đoạn văn trên diễn tả tâm sự gì của tác giả?
Trong hai câu văn Ai lại không tha thiết với mùa xuân? Ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắt và đôi môi căng mọng khi cuộc đời còn ở tuổi 20? Tác giả sử dụng biện pháp tu từ nào ? Tác dụng của biện pháp tu từ đó?
Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn văn?
Viết đoạn văn (  từ 5 đến 7 dòng ) Trình bày suy nghĩ của Anh (chị) về nội dung: Sống để tuổi thanh xuân có ý nghĩa?
Câu 2 (7,0 điểm) Cảm nhận bài thơ “ Nhàn” của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Kiêm.
                                    “Một mai, một cuốc, một cần câu,
                                      Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
                                      Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, 
                                      Người khôn, người đến chốn lao xao.
                                      Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
                                      Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
                                      Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
                                      Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao .”
(SGK Ngữ văn 10-NXB giáo dục 2006)
-Hết-
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm !
 
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
V-16-17
-------------- ĐỀ KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG HỌC KỲ I
MÔN: NGỮ VĂN 10
Thời gian làm bài: 90 phút  

HƯỚNG DẪN CHẤM:
(Hướng dẫn này gồm 03 trang)
HƯỚNG DẪN CHẤM CHUNG:
- Bài làm chỉ được điểm tối đa khi đảm bảo đủ các ý và có kĩ năng làm bài, có khả năng diễn đạt tốt.
- Khuyến khích những bài viết sáng tạo, có cách trình bày khoa học, chữ viết sạch đẹp.
- Điểm toàn bài là tổng điểm thành phần của từng câu, cho điểm lẻ đến 0,25.
B. HƯỚNG DẪN CHẤM CỤ THỂ:
Câu 1 (3,0 điểm):
 
Câu hỏi Nội dung Thang điểm    

1

Đó là tâm sự của một bác sĩ trẻ giữa chiến trường ác liệt trong thời khắc của năm mới. Một tâm sự tiếc nuối tuổi thanh xuân nhưng cũng sẵn sàng hiến dâng tuổi xuân.
0,5 đ    

2



Hai câu: Ai lại không tha thiết với mùa xuân? Ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắ và đôi môi căng mọng khi cuộc đời còn ở tuổi hai mươi sử dụng câu hỏi tu từ. Mục đích: Nhấn mạnh, khẳng định và làm nổi bật khát vọng , sự tha thiết với mùa xuân, với tuổi trẻ ở mỗi người.

1,0 đ    

3

Đoạn văn chủ yếu sử dụng phương pháp tự sự kết hợp với biểu cảm.
0,5 đ

   
4      Yêu cầu về nội dung:
Trình bày suy nghĩ của Anh (chị) về nội dung: Sống để tuổi thanh xuân có ý nghĩa? Bài làm của học sinh phải ngắn gọn súc tích. Phải khẳng định được  vẻ đẹp của mùa xuân , ý nghĩa của tuổi trẻ. Từ đó nhận thức và hành động đúng đắn để sống có ích, tận hưởng và tận hiến cho cuộc đời.

     Yêu cầu về phương pháp:
        Học sinh có thể linh hoạt trong việc diễn đạt nội dung trên. 
        Bố cục đầy đủ , có sử dụng phương thức biểu đạt nghị luận.
        Hành văn rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi ngữ pháp, dùng từ, chính tả.
     Biểu điểm:
         Điểm 3-4 đáp ứng tốt các yêu cầu trên.
         Điểm 2-2.5 đảm bảo nội dung, mắc không quá 5 lỗi.
         Điểm 1- 1.5 có kể được kỷ niệm nhưng diễn đạt chưa rõ ý.
         Điểm 0.25- 0.5 viết được một vài dòng hoặc viết quá lủng củng , rình bày cẩu thả
         Điểm 0: Không viết được gì hoặc viết hoàn toàn lạc đề.







1,0 đ  
Câu 2 (7,0 điểm): 
Yêu cầu về nội dung:
        * HS nêu được cảm nhận của mình về bài thơ :Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cảm nhận thể hiện qua các nội dung sau:
1. Vẻ đẹp cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm : (Câu 1 và 2, câu 5 và 6).
- Cuộc sống thuần hậu :
+Hiện lên trong câu thơ là một “lão nông tri điền” với những công cụ lao động quen thuộc: 
mai, cuốc, cần câu.
+Cách dùng số tính đếm rành rọt “Một…,một…,một…” cho thấy tất cả đã sẵn sàng chu đáo.
+Việc một Trạng Trình danh tiếng lẫy lừng trở về với đời sống bình dị, dân dã: đào ao, cuốc 
đất cũng là một sự ngông ngạo trước thói đời. Ngông ngạo mà vẫn thuần hậu, nguyên thủy;
“Thơ thẩn dầu ai vui thú nào” đạm bạc mà không khắc khổ, vẫn thanh cao.
- Cuộc sống thanh cao: (Câu 5 và 6).
+Sự đạm bạc là những thức ăn quê mùa, dân dã: măng trúc, giá đỗ; sinh hoạt bình dị như mọi 
người dân quê: tắm hồ, tắm ao.
+Hai câu thơ mà có một bộ tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa: xuân-hạ-thu-đông; 
có mùi vị có hương sắc, không nặng nề, không ảm đạm. Vì vậy cuộc sống đạm bạc nhưng 
thanh cao trong sự trở về, hoà hợp với thiên nhiên.
2. Vẻ đẹp nhân cách, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm : (câu 3 và 4, câu 7 và 8).
- Nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm đối mặt với danh lợi như nước với lửa. Sống cuộc đời ẩn sĩ, ông thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, để tâm hồn an nhiên khoáng đạt.
- “Vắng vẻ” đối lập với “lao xao”, “ta” đối lập với “người”. Đó cũng là sự đối lập của hai hoàn cảnh sống. “Nơi vắng vẻ” là nơi tĩnh tại của thiên nhiên, là nơi thảnh thơi của tâm hồn. 
“Chốn lao xao” là nơi cửa quyền, là đưỡng hoạn lọâ nhiều đua chen, thủ đoạn…
- Hai chữ “dại” – “khôn” vừa thâm trầm vừa hóm hỉnh, thể hiện sự thư thái ung dung của 
Bạch Vân Cư  Sĩ.
- Trạng Trình là một bậc thức giả với trí tuệ vô cùng tỉnh táo. Tỉnh táo trong sự chọn lựa: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ -  Người khôn, người đến chốn lao xao”, “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
-Với Nguyễn Bỉnh Khiêm cái “Khôn” của người thanh cao là quay lưng lại với danh lợi, tìm 
sự thư thái cho tâm hồn, sống ung dung hoà nhập với tự nhiên.
      “Rượu đến cội cây, ta sẽ uống
     Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao”
Cuộc sống nhàn dật này là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ. Trí tuệ nhận ra công danh, 
của cải, quyền quí chỉ là giấc chiêm bao. Trí tuệ nâng cao nhân cách đểù nhà thơ từ bỏ “chốn 
lao xao” quyền quí đến nơi vắng vẻ, đạm bạc mà thanh cao để di dưỡng tinh thần. Nguyễn 
Bỉnh Khiêm nhàn thân mà không nhàn tâm, nhàn mà vẫn canh cánh nỗi niềm “ái quốc ưu dân”.

 Yêu cầu về phương pháp:
Bố cục đầy đủ, diễn đạt trôi chảy, mạch lạc. không mắc lỗi ngữ pháp, dùng từ, chính tả, trình bày rõ ràng.
Có thể liên hệ, so sánh với các tác giả khác
 Biểu điểm:
Điểm 6 – 7 : Bài làm mang chất văn, diễn đạt hay, giàu cảm xúc, thể hiện những sáng tạo và những cảm xúc chân thành ..
Điểm 4 – 5 : Bài có cảm xúc, lời văn hay nhưng còn sai từ 1-2 lỗi chính tả, dùng từ, diễn đạt
Điểm 3 – 2 : Bảo đảm nội dung đề ra ở mức trung bình, sai chính tả dưới 5 lỗi.
Điểm 2 -1 : Diễn đạt lộn xộn, sơ sài, chưa nắm vững nội dung tác phẩm, chưa có ý, sai chính tả nhiều.
Điểm 0 : chưa hiểu đúng yêu cầu đề ra, chưa viết trọn vẹn phần nào.

Bài mẫu thư UPU lần 48: “Hãy viết một bức thư về người hùng của em” (Tiếng Anh: Write a letter about your hero) dành cho các em học sinh dưới 15 tuổi.

 “Hãy viết một bức thư về người hùng của em” (Tiếng Anh: Write a letter about your hero) dành cho các em học sinh dưới 15 tuổi. Mẫu thư U...